Đại tướng Phạm Văn Trà là một tướng lĩnh của quân đội nhân dân Việt Nam. Nhờ vào kinh nghiệm, bản lĩnh cùng sự sáng tạo, gan góc của ông đã giúp ích rất nhiều trong việc giành chiến thắng trước quân xâm lược, góp phần vào công cuộc gìn giữ hòa bình, độc lập, tự do cho dân tộc.
Tiểu sử đại tướng Phạm Văn Trà
Đại tướng Phạm Văn Trà sinh ngày 19 tháng 8 năm 1935, tại xã Phù Lãng, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Ông được biết đến là một chính khách, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, mang quân hàm Đại tướng và từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2006, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (từ năm 1995 – 1997), Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, IX.
Đại tướng Phạm Văn Trà sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuần nông ở Bắc Ninh. Thời niên thiếu, ông từng chứng kiến cảnh cha mình bị thực dân Pháp bắn chết. Chính vì thế khi mới 17 tuổi, ông đã khai man thêm tuổi, thậm chí bỏ thêm đá vào trong quần để đủ cân nặng nhằm có thể được nhập ngũ đánh giặc. Đến khi được chính thức nhập ngũ, ông tỏ ra mình là người gan dạ, bản lĩnh, thường xuyên được giao những nhiệm vụ nguy hiểm nhất. Tuy nhiên ông vẫn hoàn thành xuất sắc những gì được giao.
Sự nghiệp quân sự của đại tướng Phạm Văn Trà
Năm 1953, khi mới tròn 18 tuổi, đại tướng Phạm Văn Trà tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, phục vụ với vai trò là lính thông tin.
Năm 1956, ông trở thành đảng viên của đảng Lao động Việt Nam.
Năm 1964, đại tướng Phạm Văn Trà là một trong những người chỉ huy của lực lượng đầu tiên tiếp viện cho chiến trường U Minh. Đến khi hết chiến tranh, ông là một sĩ quan Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam của lực lượng vũ trang miền Tây.
Năm 1973, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Quân khu 9, dưới quyền của Đại tá Lê Đức Anh.
Từ tháng 12 năm 1975 đến năm 1977, đại tướng Phạm Văn Trà lần lượt giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 4, rồi Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 330, Quân khu 9.
Từ tháng 9 năm 1978, ông về học tại Học viện Quân sự cấp cao. Đến tháng 8 năm 1980, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 330, tham chiến tại Campuchia.
Tháng 3 năm 1983, đại tướng Phạm Văn Trà là Phó Tư lệnh Mặt trận 979.
Từ năm 1985 đến 1988, ông giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 9. Đến tháng 6 năm 1988, ông được điều về giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 3.
Từ năm 1989 đến 1993, đại tướng Phạm Văn Trà giữ chức Tư lệnh Quân khu 3. Đến tháng 12 năm 1993, ông được cử làm Phó Tổng Tham mưu trưởng; từ tháng 12 năm 1995, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng.
Đến tháng 12 năm 1997, đại tướng Phạm Văn Trà được phân công giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay tướng Đoàn Khuê nghỉ hưu.
Đại tướng Phạm Văn Trà còn là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII (1991-1996).
Đại tướng Phạm Văn Trà cũng là Ủy viên Bộ Chính trị, Ban chấp Trung ương Đảng khóa VIII (1996-2001), khóa IX (2001-2006), Đại biểu Quốc hội liên tiếp 3 khóa IX, X, XI.
Ngày 28 tháng 6 năm 2006, ông được Quốc hội miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Đại tướng Phạm Văn Trà được phong hàm Thiếu tướng 1987, Trung tướng 1993, Thượng tướng năm 1999, Đại tướng năm 2003. Hiện nay ông đã nghỉ hưu theo chế độ của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Với nhiều công lao và thành tích xuất sắc, đại tướng Phạm Văn Trà đã được Đảng, Nhà nước phong tặng nhiều danh hiệu cao quý như Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam (1976); Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến công (hạng Nhì, hạng Ba),… và hàng loạt huân, huy chương cao quý khác.