Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những vị lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô sản. Người đã có công lao vô cùng to lớn trong việc đánh đuổi Pháp và Mỹ xâm lược, giành lại được độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Tiểu sử Hồ Chí Minh là ai?
Chủ tịch Hồ Chí Minh có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung, người sinh ngày 19/5/1890 tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người được biết đến là một nhà chính trị, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, có công lao vô cùng to lớn trong việc giành lại độc lập chủ quyền, chấm dứt chiến tranh, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước và tự tôn dân tộc. Cha của người là Nguyễn Sinh Sắc, từng thi đỗ Phó bảng, còn mẹ là bà Hoàng Thị Loan. Cha mẹ của người có tất cả là 4 người con, trong đó chủ tịch Hồ Chí Minh là người con thứ 3 trong nhà. Vì sinh sống trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, dân chúng bị bóc lột nặng nề đã khiến cho người vô cùng căm phẫn, quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam.
Giai đoạn tuổi trẻ của chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1895, khi mới lên 5 tuổi, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cha mẹ và anh trai đi vào trong Huế lần đầu tiên. Đến năm 1901, mẹ của người không may qua đời, người trở về Nghệ An sống với bà ngoại một thời gian ngắn. Không lâu sau thì cụ ông Nguyễn Sinh Sắc đỗ chức Phó bảng, người liền theo cha về quê nội. Tại quê nội, cha của người đã làm “lễ vào làng” cho hai người con trai với tên mới là “Tất Đạt” cho Nguyễn Sinh Khiêm và “Tất Thành” cho Nguyễn Sinh Cung. Kể từ đây người bắt đầu sử dụng tên Nguyễn Tất Thành cho các hoạt động về sau này chứ không còn sử dụng tên khai sinh. Người theo học ngài cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số thầy giáo khác trong làng để nâng cao kiến thức.
Vào năm 1906, chủ tịch Hồ Chí Minh khi này đã 16 tuổi đi theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở Trường Tiểu học Pháp – Việt Đông Ba. Tại ngôi trường này, người đã trải qua các niên khóa 1906 – 1907 lớp nhì và 1907 – 1908 lớp nhất. Trong kỳ thi primaire (tương đương tốt nghiệp tiểu học) vào năm 1908, người là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường, được phép thi vượt cấp vào hệ Thành chung của trường Quốc Học.
Đầu năm 1910, khi này chủ tịch Hồ Chí Minh đã 20 tuổi, người đến Phan Thiết để dạy thể dục và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và lớp bốn tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Trong quãng thời gian tại đây, người thường gặp gỡ một số nhà nho yêu nước đương thời, tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc và ngày càng thể hiện rõ tinh thần, quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lược, đem lại độc lập tự do cho đồng bào.
Khoảng cuối tháng 1 năm 1911, chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ dạy và vào Sài Gòn cùng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, người theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son, vừa đi bán báo ở khu vực trong thương cảng để kiếm sống và đồng thời cũng là để tìm hiểu đời sống công nhân. Trong thời gian này, người đã theo học được 3 tháng, sau đó người quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để có cơ hội được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây nhằm giúp tìm ra con đường cứu nước, độc lập dân tộc.
Giai đoạn ra nước ngoài tìm đường cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh
1. Thời gian đầu khi mới ra nước ngoài
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, chủ tịch Hồ Chí Minh lấy tên Văn Ba để lên đường sang Pháp theo nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây nhằm tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Ngày 6 tháng 7 năm 1911, sau hơn 1 tháng đi biển, tàu cập cảng Marseille, Pháp.
Tại Marseilles, người đã viết thư đến Tổng thống Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa École Coloniale, trường chuyên đào tạo các nhân viên hành chính cho chính quyền thực dân, với hy vọng “giúp ích được cho nước Pháp”. Thư yêu cầu của người liền bị từ chối và được chuyển đến Khâm sứ Trung Kỳ ở Huế. Ở Pháp trong một thời gian, sau đó chủ tịch Hồ Chí Minh qua Hoa Kỳ sinh sống.
Sau khi đã sống ở Hoa Kỳ một năm (cuối năm 1912 – cuối năm 1913), người đến nước Anh để làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Tại đây người học thêm tiếng Anh, và sinh sống ở Luân Đôn cho đến cuối năm 1916. Vào cuối năm 1917, người quay trở lại nước Pháp để sống và hoạt động ở đây cho đến tận năm 1923.
2. Thời gian sinh sống ở Pháp
Tháng 2 năm 1919, chủ tịch Hồ Chí Minh gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, người đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam bao gồm 8 điểm, để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Mỹ Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á. Bản yêu sách được trao tận tay Tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị. Bản yêu sách này không yêu cầu độc lập dân tộc cho Việt Nam, nhưng bao gồm những quyền tự do và bình đẳng.
Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc. Từ đây, chủ tịch Hồ Chí Minh công khai gọi tên mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt quãng thời gian 30 năm sau đó. Tuy nhiên hội nghị Hòa bình Versailles không thèm để ý đến bản yêu sách này của người. Vậy nên chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuyển hướng sang học hỏi Liên Xô sau khi thấy Cách mạng tháng 10 ở Nga thành công như thế nào.
Năm 1920, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, từ đó người hoàn toàn tin tưởng vào chủ nghĩa cộng sản. Người tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, từ đó người đã trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội.
Năm 1921, chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Đến năm 1922, người cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra tờ báo Người cùng khổ, người làm chủ nhiệm đồng thời kiêm chủ bút. Tờ báo được sáng lập nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” bằng tiếng Pháp do chính người viết đã được xuất bản vào năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
3. Thời gian sinh sống ở Liên Xô
Vào đầu năm 1922, chủ tịch Hồ Chí Minh rời nước Pháp để đến Liên Xô. Người tham gia vào Đại hội lần thứ tư của Quốc tế Cộng sản, ở đó người đã được gặp mặt Lênin và trở thành thành viên của Ban Đông Nam Á của Quốc tế Cộng sản.
Tháng 6 năm 1923, người đi đến Moskva học tập tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông, được đào tạo chính quy về Chủ nghĩa Marx, tuyên truyền và khởi nghĩa vũ trang. Tại đây chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), người còn được bầu vào Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Đệ Tam Quốc tế (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), người còn được cử làm Ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1924, chủ tịch Hồ Chí Minh viết và nộp cho tổ chức Đệ Tam Quốc tế một bản Báo cáo về tình hình Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Những tư tưởng này của người trong bản báo cáo vốn không có gì mâu thuẫn với Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa của Lênin, khi phát động chủ nghĩa dân tộc là sách lược để đi đến chủ nghĩa cộng sản. Tuy nhiên, một số người trong Quốc tế Cộng sản lại không quan tâm tới quan điểm này của người, họ cho rằng đường lối của người đang làm là trái với nghị quyết của Quốc tế cộng sản khi đó.
4. Thời gian sinh sống ở Trung Quốc
Sau khi học tập tại Liên Xô, vào cuối năm 1924, chủ tịch Hồ Chí Minh rời Liên Xô để đi tới Quảng Châu theo phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn, nhằm đến giúp chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch, khi này người làm phiên dịch viên và lấy tên là Lý Thụy.
Trong thời gian ở Trung Quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiệm vụ tuyên truyền và phổ biến tư tưởng cách mạng ra khắp vùng Đông Phương. Vào năm 1925, người đã tập hợp Việt kiều và thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu nhằm để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam. Cuốn sách Đường Kách mệnh do chính người là tác giả, đã tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản vào năm 1927.
Cũng trong năm 1925, chủ tịch Hồ Chí Minh tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm Hội trưởng và người làm Bí thư. Tổ chức này sau đó trở thành Đảng Cộng sản Nam Hải, tiền thân của một loạt các tổ chức cộng sản sau này, bao gồm có cả Đảng Cộng sản Đông Dương.
Trong thời kỳ này, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng gửi một loạt người Việt tới đi học tại trường quân sự của Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, đồng thời tiến hành một khóa đào tạo về khởi nghĩa vũ trang. Bởi vì Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, cho nên người đành rời Quảng Châu đi Hồng Kông, rồi chạy thoát sang Liên Xô theo đường sa mạc Gobi. Đến tháng 11 năm 1927, người được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại Hội đồng của Liên đoàn Chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
5. Thời gian sinh sống ở Thái Lan
Mùa thu năm 1928, chủ tịch Hồ Chí Minh di chuyển từ châu Âu đến Xiêm La (Thái Lan), cải trang là một nhà sư đầu trọc, với bí danh là Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều đang sống tại Xiêm, đồng thời xuất bản báo chí để gửi về nước. Cuối năm 1929, người rời khỏi Vương quốc Xiêm La và trở lại Trung Quốc lần thứ 2.
6. Thời gian sinh sống ở Trung Quốc lần thứ 2
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long thuộc Hồng Kông, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, nhằm giải quyết những mâu thuẫn hiện có giữa những người cộng sản Đông Dương, chủ tịch Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương thành Đảng Cộng sản Việt Nam, sau này là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Cũng trong năm 1930, khởi nghĩa Xô viết Nghệ Tĩnh do Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ đạo nổ ra nhưng thất bại. Đảng Cộng sản Đông Dương vì thế bị cấm hoạt động, đồng thời bản thân chủ tịch Hồ Chí Minh bị xử tử hình vắng mặt. Tháng 3 năm 1930, người trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, rồi quay lại Trung Quốc.
Vào năm 1931, chủ tịch Hồ Chí Minh dưới tên giả là Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hồng Kông bắt giam và có ý định trao người cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L’Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông, đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp cấu kết với Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó, nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Francis Henry Loseby, Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Người sau đó đã đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
7. Thời gian sinh sống ở Liên Xô lần thứ 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, người theo học ở Trường Quốc tế Lenin (1934–1935). Sau đó dưới tên giả Linov, người đi dự Đại hội lần thứ 7 Đệ Tam Quốc tế (từ 25 tháng 7 đến 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của Ban Thư ký Dalburo. Trong thời gian này, người đã bị Ban Lãnh đạo Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương viết thư gửi Quốc tế Cộng sản kết tội phải chịu trách nhiệm chính cho việc hơn 100 đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên bị bắt, do việc chủ tịch Hồ Chí Minh biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng.
Vì vậy mà người bị buộc phải ở Liên Xô cho đến năm 1938, bị giam lỏng vì nghi ngờ lý do người được nhà cầm quyền Hồng Kông trả tự do. Quốc tế Cộng sản thành lập Ban Thẩm tra vì nghi ngờ sự trung thành chính trị của người nhưng không tìm ra chứng cứ cho thấy điều này, nên hồ sơ vụ việc đã được Ban Thẩm tra quyết định hủy bỏ. Sau đó, người tham gia lớp nghiên cứu sinh Viện Nghiên cứu các Vấn đề Dân tộc và Thuộc địa của Quốc tế Cộng sản.
8. Thời gian sinh sống ở Trung Quốc lần thứ 3
Năm 1938, chủ tịch Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc. Trong vai Thiếu tá Bát lộ quân tên là Hồ Quang, người đến công tác tại văn phòng Bát lộ quân tỉnh Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc trong khoảng thời gian mùa đông năm 1938 đến đầu năm 1939.
9. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Việt Nam
Đầu tháng 1 năm 1941, Hoàng Văn Thụ khi đó đang là Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng đã đi từ Việt Nam sang Tĩnh Tây (Quảng Tây, Trung Quốc) để gặp chủ tịch Hồ Chí Minh để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố An toàn khu Cao Bằng. Hoàng Văn Thụ đề nghị người nên về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua lối Cao Bằng. Người cũng nhận định Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng rất lớn cho cách mạng, và người quyết định trở về nước để lãnh đạo cách mạng sau hơn 30 năm sống ở nước ngoài.
Từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5 năm 1941, chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ 8 mở rộng của Trung ương Đảng họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Một trong những kết quả của hội nghị này là nghị quyết về việc thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh, hay còn gọi là tổ chức Việt Minh. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, người mới chính thức lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội Quốc tế Phản Xâm lược Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc.
Tuy nhiên người đã bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt giữ vào ngày 29 tháng 8 năm 1942 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và bị giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù khác nhau. Ngày 25 tháng 10 năm 1942, Hội Quốc tế Chống Xâm lược ở Đông Dương gửi 2 bức thư, một cho Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc, bức còn lại cho Thống chế Tưởng Giới Thạch đề nghị can thiệp trả tự do cho chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhờ đó mà người đã được trả tự do vào ngày 10 tháng 9 năm 1943, theo yêu cầu của Hoa Kỳ sau một khoảng thời gian thương lượng với chính quyền Trung Quốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Cuối tháng 9 năm 1944, chủ tịch Hồ Chí Minh trở về Việt Nam và trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của tổ chức Việt Minh. Cuối năm 1944, người trở lại Côn Minh hoạt động cách mạng cho tới đầu năm 1945.
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh gặp Trung tướng Mỹ Chennault tại Côn Minh (Trung Quốc). Chennault cảm ơn tổ chức Việt Minh đã giúp đỡ chống Nhật và sẵn sàng viện trợ những gì có thể theo yêu cầu. Còn người khẳng định quan điểm của Việt Minh là ủng hộ và đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật.
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng tức Chính phủ Lâm thời, do chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đến ngày 19 tháng 8 năm 1945, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh đã diễn ra. Nhờ đó mà cách mạng tháng Tám diễn ra thuận lợi, thành công.
Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi công điện yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị, nhờ đó mà tổ chức đã giành được chính quyền trên khắp cả nước. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người trở thành Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi quốc hội khóa I của Việt Nam đã tiến hành bỏ phiếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo kháng chiến chống Pháp
Sau cách mạng tháng Tám, quân Nhật không còn cai trị Việt Nam, thay vào đó với hiệp ước Pháp – Hoa, quân Pháp sẽ thay thế quân Trung Quốc để hiện diện tại Việt Nam. Ngày 31 tháng 5 năm 1946, chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này, cũng trong cùng ngày, phái đoàn Chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau 1946. Trước khi đi, người đã bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng. Người đã ở Pháp suốt 4 tháng mà vẫn không thể cứu vãn được nền hòa bình cho Việt Nam.
Cuối tháng 12 năm 1946, quân Pháp gửi 3 tối hậu thư trong vòng chưa đầy một ngày để đòi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị vũ trang, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội và trao cho quân đội Pháp quyền duy trì trị an trong thành phố. Không thể chấp nhận những yêu cầu mang tính tước đoạt chủ quyền Việt Nam của quân Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do chủ tịch Hồ Chí Minh chấp bút được phát trên đài phát thanh, 20 giờ tối cùng ngày, kháng chiến chính thức bùng nổ.
Tháng 3 năm 1947, chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Người kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hủy kho tàng cũng là kháng chiến để nhằm không cho quân Pháp sử dụng lại cơ sở hạ tầng. Từ năm 1947 cho tới năm 1950, người lãnh đạo cuộc kháng chiến, khiến quân Pháp dần bị sa lầy và ngày càng mệt mỏi vì chiến tranh kéo dài mãi không hết.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng diễn ra vào năm 1951, chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954. Từ đây chế độ thực dân trên toàn thế giới chính thức kết thúc.
Những năm tháng cuối đời của chủ tịch Hồ Chí Minh
Từ khoảng nửa cuối thập niên 1960, do sức khỏe ngày càng suy giảm, chủ tịch Hồ Chí Minh giảm dần các hoạt động chính trị, thường xuyên sang Trung Quốc để tham quan, nghỉ ngơi và dưỡng bệnh. Bắt đầu từ năm 1963, người dần bàn giao công việc cho Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, người mà đích thân chủ tịch đã gọi ra Hà Nội gấp vào năm 1957 để trực tiếp giúp điều hành công việc chung của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dần lui về nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào và viết báo. Trong giai đoạn 1951–1969, người còn được nắm giữ chức vụ Chủ tịch Đảng. Đây là chức vụ lớn nhất trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn cả chức vụ Tổng Bí thư. Từ đó đến nay trong lịch sử chưa có một ai khác được giữ chức vụ này.
Trong thời gian chuẩn bị diễn ra cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, chủ tịch Hồ Chí Minh đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Trung Quốc. Người liên tục ốm nặng kể từ năm 1966, phải sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần, hầu như cả năm 1967 người luôn ở Trung Quốc để chữa bệnh. Tuy phải đi chữa bệnh, nhưng do tầm quan trọng của chiến dịch, người vẫn quay về Việt Nam 2 lần vào tháng 7 và tháng 12 năm 1967 để chỉ đạo xây dựng và phê duyệt quyết định tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân.
Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, Mỹ phải chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán hòa bình với Việt Nam. Trong những năm tháng cuối đời, do tuổi cao sức yếu nên chủ tịch Hồ Chí Minh bị mắc chứng suy tim không thể chữa khỏi. Chiều ngày 12 tháng 8 năm 1969, người khi đó vẫn còn khỏe, nghe Lê Đức Thọ báo cáo tình hình Hội nghị Paris. Đêm hôm đó, người bắt đầu lên cơn sốt và ho, rồi những ngày sau đó bệnh tình ngày một nặng hơn.
Bác sĩ nói tim của chủ tịch đã quá yếu, khó mà cứu chữa. Sau 2 tuần nằm trên giường bệnh, đêm ngày 1 tháng 9, người bị hôn mê. Đến 6 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, chủ tịch Hồ Chí Minh ngừng thở, các bác sĩ phải cho thở máy. Đến 9 giờ sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, người bị một cơn suy tim nặng, các bác sĩ phải thực hiện công việc cấp cứu nhưng không có kết quả. Theo dõi trên máy điện tim thì đến 9 giờ 15 phút, trái tim của chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngừng đập.
Như vậy, chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch) tại thủ đô Hà Nội, do bị suy tim, hưởng thọ 79 tuổi. Do hoàn cảnh thời chiến, để tránh trùng với ngày Quốc khánh, ngày mất của người đã được Ban Lãnh đạo Đảng công bố là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là vị lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Người còn là một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, luôn hết lòng để giúp đất nước được độc lập, người dân được tự do.