Đại tướng Lê Văn Dũng là một tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông cũng là vị đại tướng đầu tiên và duy nhất cho đến nay có xuất thân là người miền Nam Bộ.
Tiểu sử đại tướng Lê Văn Dũng
Đại tướng Lê Văn Dũng có tên thật là Nguyễn Văn Nới, ông sinh ngày 25 tháng 12 năm 1945 tại xã Phong Mỹ (nay là xã Phong Nẫm), huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông được biết đến với vai trò là một tướng lĩnh cao cấp, mang quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (giai đoạn từ 2001 đến 2011) và Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (giai đoạn từ 1998 đến 2001).
Đại tướng Lê Văn Dũng sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo có đến 7 người con. Thuở thơ bé ông phải phụ giúp gia đình trông coi vườn dừa để có kế sinh nhai nuôi sống bản thân. Sau này khi chiến tranh chống Mỹ nổ ra, ông buộc phải thoát ly gia đình khi mới 18 tuổi, sau lấy tên là Lê Văn Dũng như chúng ta biết đến ngày nay. Hiện ông đã nghỉ hưu và quay trở lại công việc chăm sóc vườn dừa giống như cha mẹ ông đã từng làm trước kia.
Sự nghiệp quân sự của đại tướng Lê Văn Dũng
Ngày 14 tháng 5 năm 1963, đại tướng Lê Văn Dũng tham gia nhập ngũ vào bộ đội chủ lực của Quân Giải phóng Miền Nam, trở thành chiến sĩ trinh sát của Đại đội 12 Tiểu đoàn 3, Đoàn Q761 (tức Đoàn Bình Giã ngày nay).
Từ khi Sư đoàn 9 được thành lập, đại tướng Lê Văn Dũng lần lượt giữ các chức vụ Tiểu đội trưởng trinh sát, Trung đội phó bộ binh, Trung đội trưởng, Đại đội phó Đại đội 12 Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 1 Sư đoàn 9.
Đại tướng Lê Văn Dũng được kết nạp Đảng Lao động Việt Nam ngày 23 tháng 9 năm 1965, trở thành đảng viên chính thức ngày 23 tháng 9 năm 1966.
Tháng 6 năm 1968, ông chuyển sang công tác chính trị quân đội, được cử làm Chính trị viên Đại đội 6 Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 1 Sư đoàn 9.
Tháng 3 năm 1969, Đại tướng Lê Văn Dũng là Chính trị viên phó, tháng 9 cùng năm trở thành Chính trị viên Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 1, Sư đoàn 9.
Tháng 12 năm 1970, ông được cử đi học tại H14 (Trường trung cấp Quân chính thuộc Bộ chỉ huy Miền, lớp cán bộ trung đoàn).
Tháng 6 năm 1971, ông trở về đơn vị, được cử làm Phó chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9, cấp bậc Đại úy.
Tháng 3 năm 1973, Đại tướng Lê Văn Dũng được thăng làm Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 (từ 20 tháng 7 năm 1974 thuộc Quân đoàn 4), cấp bậc Thiếu tá.
Tháng 10 năm 1974, Đại tướng Lê Văn Dũng được thăng làm Chính ủy Trung đoàn 1 Sư đoàn 9 Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long). Ông tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh và Chiến dịch phản công biên giới Tây-Nam Việt Nam, cấp bậc Trung tá.
Đơn vị của Đại tướng Lê Văn Dũng làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, đến tháng 12 năm 1977, ông được triệu hồi về nước và cử đi học bổ túc văn hóa tại Trường Văn hóa Bộ Quốc phòng.
Tháng 8 năm 1978, Đại tướng Lê Văn Dũng theo học tại Học viện Quân sự cấp cao.
Tháng 8 năm 1980, ông trở lại đơn vị, giữ chức Sư đoàn phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 9, Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), cấp bậc Thượng tá.
Tháng 4 năm 1984, Đại tướng Lê Văn Dũng được cử đi học tại Trường Ngoại ngữ Quân sự Bộ Quốc phòng.
Tháng 6 năm 1986, ông giữ chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 9 Quân đoàn 4, cấp bậc Đại tá.
Tháng 2 năm 1988, đơn vị Đại tướng Lê Văn Dũng hoàn thành nhiệm vụ quốc tế và rút về nước, ông được cử đi học bổ túc tại Học viện Frunde Liên Xô. Tháng 4 năm 1989, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng.
Tháng 8 năm 1989, ông trở về nước, được bổ nhiệm Phó tư lệnh thứ nhất Quân đoàn 4.
Tháng 8 năm 1989, Đại tướng Lê Văn Dũng được cử đi học bổ túc lý luận cao cấp tại Học viện Chính trị Quân sự. Tháng 9 năm 1990, ông được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 7.
Tháng 10 năm 1991, ông được chuyển sang làm Tư lệnh Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long).
Tháng 10 năm 1995, Đại tướng Lê Văn Dũng được chuyển trở lại Quân khu 7 giữ chức Tư lệnh.
Tháng 1 năm 1998, ông được điều về Bộ Quốc phòng, giữ chức Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. (Kế nhiệm ông tại Quân khu 7 là Phan Trung Kiên, sau trở thành Thứ trưởng Bộ Quốc phòng). Tháng 4 cùng năm, ông được thăng quân hàm Trung tướng.
Tháng 9 năm 1998, Đại tướng Lê Văn Dũng được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (thay Trung tướng Đào Trọng Lịch bị tử nạn do rơi máy bay).
Tháng 5 năm 2001, Đại tướng Lê Văn Dũng chuyển công tác trở lại Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, giữ chức Chủ nhiệm.
Đại tướng Lê Văn Dũng được Chủ tịch nước thăng quân hàm từ Trung tướng lên Thượng tướng tháng 6 năm 2003, lên Đại tướng vào tháng 7 năm 2007 (cùng được thăng Đại tướng vào đợt này có bộ trưởng Phùng Quang Thanh).
Đại tướng Lê Văn Dũng trúng cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa VIII, IX, X, được bầu vào Ban Bí thư các khoá IX, X.
Đại tướng Lê Văn Dũng cũng được bầu làm Đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII.
Đại tướng Lê Văn Dũng không tham gia tái cử tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI, lý do được cho là chuẩn bị để cho việc nghỉ hưu. Trung tướng Ngô Xuân Lịch, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, được bầu vào Ban Bí thư tại kỳ đại hội này, đã kế nhiệm ông trong chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2011.